Tại Việt Nam, nông nghiệp hiện là một trong những lĩnh vực có nhiều vụ việc bội tín, phá vỡ hợp đồng kinh tế nhất.
Nông dân phá hợp đồng, doanh nghiệp cũng phá hợp đồng.
Cả hai phía sẵn sàng phá bỏ hợp đồng khi thị trường không ổn định hoặc nhận thấy
có những nguồn lợi trước mắt. Vấn đề không chỉ đơn thuần là hợp đồng tiêu thụ
giữa nông dân và doanh nghiệp. Xa hơn, đó là cam kết của từng mắt xích trong
chuỗi liên kết: sản xuất - tiêu thụ - chế biến và xuất khẩu.
Cách đây 3 tháng, hàng trăm tấn bí xanh của nông dân
huyện Chư Sê, CHư Pưh tỉnh Gia Lai phải bỏ thối ngoài đồng vì doanh nghiệp ngừng
thu mua. Đến vụ thu hoạch, nông dân không thể liên lạc được với số điện
thoại doanh nghiệp ghi trong hợp đồng.
Còn tại Phú Yên, nông dân đã bán 40% diện tích mía
nguyên liệu đã ký với nhà máy khi thị trường trả giá cao hơn doanh nghiệp.
Tại Đồng bằng sông Cửu Long, mỗi năm có hàng nghìn hợp
đồng tiêu thụ cá tra giữa hộ nuôi và doanh nghiệp được kí kết. Thế nhưng cứ đến
thời điểm giá cá tra biến động thì hợp đồng lại thành vô tác dụng.
Năm 2014 -2015, chỉ có 8 trên 17 doanh nghiệp thực
hiện mua lúa theo hợp đồng đã ký kết trực tiếp với nông dân và hợp
tác xã.
Điểm chung của các vụ phá vỡ hợp đồng giữa doanh
nghiệp và nông dân là nội dung hợp đồng liên kết lỏng lẻo, thiếu những quy định
chế tài cụ thể khiến việc thực hiện hợp đồng mang tính nửa vời. Nông dân bị
doanh nghiệp chiếm dụng vốn bằng hình thức trả chậm. Còn doanh nghiệp thì không
mua được nông sản khi giá thị trường tăng.
Theo VTV